Dấu hiệu thuyên tắc phổi trên X quang ngực

1.    Dấu hiệu Fleischner


Dấu hiệu Fleischner được bác sỹ X quang người úc, Felix George Fleischner (1893-1969) mô tả vào năm 1961, là dấu hiệu động mạch phổi giãn to và tăng đậm do tăng áp phổi hoặc do thuyên tắc phổi gây ra bởi cục huyết khối lớn được thấy trên phim X quang ngực, CT mạch máu phổi (CTPA) hoặc MR mạch máu phổi (MRPA). Dấu hiệu này có độ nhạy thấp nhưng lại có độ chuyên biệt cao trong thuyên tắc phổi.

2. Dấu hiệu Westermark


Dấu hiệu Westermark là dấu hiệu thiếu máu vùng phổi sau động mạch phổi bị tắc (tắc trung tâm) với biểu hiện một vùng phổi giảm các mạch máu và tăng sáng hơn mô phổi bình thường trên X quang ngực thẳng.
Dấu hiệu Westermark được mô tả lần đầu tiên vào năm 1938 bởi bác sỹ X quang người Thụy Điển, Nils Johan Hugo Westermark (1892-1980). Dấu hiệu này có độ nhạy thấp (11%) và độ chuyên biệt cao (92%) trong thuyên tắc phổi, nghĩa là nó hiếm gặp trên X quang phổi của bệnh nhân nhân thuyên tắc phổi, tuy nhiên khi thấy được trên phim X quang phổi khả năng rất cao bệnh nhân có thuyên tắc phổi.

3. Dấu Palla


Được đặt theo tên bác sỹ X quang người Ý tên Antonio Palla được mô tả đầu tiên vào năm 1983. Dấu Palla là dấu hiệu nhánh liên thùy dưới của động mạch phổi phải lớn và cắt cụt được thấy ở 25% bệnh nhân có thuyên tắc phổi

4. Dấu hiệu Hampton hump


Được mô tả đầu tiên năm 1940 bởi Aubrey Otis Hampton (1900-1955), một bác sỹ X quang người Mỹ. Biểu hiện trên X quang ngực là hình mờ hình tam giác hay hình vòm có đáy nằm trên màng phổi, đỉnh hướng vào rốn phổi gây ra do nhồi máu phổi thứ phát sau thuyên tắc phổi
Previous Post Next Post