Nghiệm pháp Allen: cách thực hiện, ý nghĩa

Nghiệm pháp Allen được sử dụng để đánh giá khả năng tưới máu cho bàn tay của động mạch trụ và động mạch quay, được mô tả lần đầu tiên vào năm 1929 bởi vị bác sỹ người Mỹ tên Edgar Van Nuys Allen. Năm 1952, Irving S Wright đã đề xuất cải tiến nghiệm pháp Allen.
1. Nghiệm pháp Allen:
Đánh giá động mạch trụ
- Yêu cầu bệnh nhân nắm chặt lòng bàn tay
- Người khám dùng các ngón tay đè chặt lên đường đi của động mạch quay
- Bệnh nhân mở nhanh bàn tay trong lúc người khám vẫn đè chặt động mạch quay, bình thường lòng bàn tay trắng bệch nhanh chóng hồng hào trở lại (thường dưới 5 giây), chứng tỏ động mạch trụ vẫn còn dẫn máu tốt để tưới máu cho bàn tay. Trong trường hợp động mạch trụ dẫn máu kém do hẹp hoặc tắc nghẽn thì lòng bàn tay sẽ trắng bệch và lâu hồng trở lại.
Người khám buông tay và tiếp tục thực hiện đánh giá động mạch quay
- Yêu cầu bệnh nhân nắm chặt lòng bàn tay
- Người khám dùng các ngón tay đè chặt lên đường đi của động mạch trụ
- Bệnh nhân mở nhanh bàn tay trong lúc người khám vẫn đè chặt động mạch trụ, bình thường lòng bàn tay trắng bệch nhanh chóng hồng hào trở lại (thường dưới 5 giây), chứng tỏ động mạch quay vẫn còn dẫn máu tốt để tưới máu cho bàn tay. Trong trường hợp động mạch quay dẫn máu kém do hẹp hoặc tắc nghẽn thì lòng bàn tay sẽ trắng bệch và lâu hồng trở lại.
2. Nghiệm pháp Allen cải tiến
- Yêu cầu bệnh nhân nắm chặt lòng bàn tay
- Người khám dùng các ngón tay đè chặt lên đường đi của cả động mạch quay và động mạch trụ.
- Bệnh nhân mở nhanh bàn tay trong lúc người khám vẫn đè chặt động mạch quay và động mạch trụ, quan sát thấy lòng bàn tay trắng bệch.
- Người khám sau đó buông thả động mạch trụ trong khi vẫn đè chặt động mạch quay, bình thường lòng bàn tay trắng bệch nhanh chóng hồng hào trở lại (thường dưới 5 giây), chứng tỏ động mạch trụ vẫn còn dẫn máu tốt để tưới máu cho bàn tay. Trong trường hợp động mạch trụ dẫn máu kém do hẹp hoặc tắc nghẽn thì lòng bàn tay sẽ trắng bệch và lâu hồng trở lại.
3. Vai trò của hai nghiệm pháp:
Mỗi bàn tay được cấp máu nuôi từ một động mạch trụ và một động mạch quay. Động mạch quay nằm nông nên dễ xác định vị trí và cũng ít gây tổn thương các mô xung quanh khi làm một số thủ thuật liên quan động mạch quay do vậy được lựa chọn sử dụng nhiều hơn. Trong khi đó, động mạch trụ nằm sâu, khó bắt hơn nên ít được sử dụng. Một số thủ thuật liên quan đến động mạch quay, mà thường gặp trên lâm sàng là lấy máu động mạch quay để xét nghiệm khí máu có thể tạo huyết khối làm tắc động mạch quay, nếu lúc đó sự tưới máu của động mạch trụ cũng không tốt thì có thể gây thiếu máu nuôi cho bàn tay. Do vậy trước khi lấy máu động mạch người ta thường thực hiện nghiệm pháp Allen cải tiến nhằm đánh giá sự tưới máu cho bàn tay của động mạch trụ có tốt không, để phòng huyết khối hoặc tổn thương động mạch quay có thể dẫn đến thiếu máu nuôi cho bàn tay.
Trước đây khi mổ bắt cầu động mạch vành người ta thường sử dụng một đoạn động mạch quay làm cầu nối. Lúc đó, nghiệm pháp Allen cải tiến được thực hiện để đánh giá khả năng tưới máu của động mạch trụ cho bàn tay có tốt không. Nếu lòng bàn tay hồng hào lại chậm trên 5 giây thì chứng tỏ động mạch trụ tưới máu cho lòng bàn tay không tốt, không nên lấy đoạn động mạch quay.
Previous Post Next Post